Chủ đề: Tuyển tập Thơ Hồ Xuân Hương
xchieclax (SV!) [Off] [#] (01.11.2014 / 14:14) Đang tìm người yêu |
I
Xuân này nào phải cái xuân xưa,
Có sớm ư? thời lại có trưa.
Cửa đông hoa còn thưa thớt bóng,
Buồng thoa oanh khéo dập dìu tơ
Phong lưu trước mắt bình hương nguội,
Quang cảnh trong đời chiếc gối mơ.
Cân vàng nửa khắc xuân lơ lửng,
Phố liễu trăm đường khách ngẩn ngơ.
II
Mới biết vị đời chua lẫn ngọt
Mà xem phép tạo nắng thì mưa.
Tri âm đắp nửa chăn còn ngắn,
Bức vách nghe xa tiếng đã thừa.
Nếm mía vụ này ngon những ngọn(2)
Trông gương ngày nọ bẵng như tờ
Xưa nay còn có đâu hơn nữa,
Hay những từ đây, phải thế chưa?
(1) Đề bài thơ hơi lạ. Người ta thường nói "Tống cựu nghênh tân" (tiễn năm cũ, đón mừng năm mới), ở đây lại Tống tân xuân. Vì thế ông Nguyễn Lộc đã dịch: Bài thơ làm cảm năm cũ, tiễn đưa năm mới. (Nxb Văn học Hà Nội 1982).
(2) Mía chính vụ vào dịp heo may, trước Tết. Sau Tết người ta "bồng gốc" làm tơi đất, bón tưới, thúc mầm cho mía lên. Tục ngữ có câu: "Mía tháng ba ngọt ra đầu ngọn". Tháng ba, mía còn non; hoạ chăng còn sót lại chút mía măng, ăn chẳng ra gì. "Nếm mía vụ này ng on những ngọn" là nếm mía vào tháng mía trái vụ. "Nếm mía vụ này ngon những ngọn" là nếm mía vào tháng mía trái vụ. Tác giả dùng hình ảnh này để tả nỗi quá lứa lỡ thì của người con gái.
Xuân hương tặng hiệp quận (1)
Hẹn thu hẹn nguyệt luống ăn năn,
Cái kiếp phù sinh những nợ nần.
Cửa viện xuân về hoa mát mẻ,
Đài trang mây náu nguyệt băn khoăn.
Duyềnh xanh nước chảy tin lai láng,
Lá thăm thơ gieo bút ngại ngầm.
Son phấn dám đâu so ngọn bút,
Mượn tay thi tướng nhắc đồng cân.
(1) Bài này không có trong Lưu hương kí, nhưng tình điệu thuộc loại trong tập này. Được phát hiện tại Thanh Hoá (Tạp chí Văn học số 3 -1974). Giáo sư Hoàng Xuân Hãn đã hiệu đính 3 chữ mát mẻ và náu ở câu 3-4 từ các chữ mỉm mỉm, tỏ ở văn bản cũ.
Phiên âm:
Độ hoa phong (1)
Phiến phàm vô cấp độ Hoa Phong,
Tiễu bích đan nhai xuất thuỷ trung.
Thuỷ thế mỗi tuỳ sơn diện chuyển,
Sơn hình tà kháo thuỷ môn thông.
Ngư long tạp xử thu yên bạc,
Âu lộ tề phi nhật chiếu hồng.
Ngọc động vân phòng tam bách cục
Bất tri thuỳ thị Thuỷ Tinh cung.
Dịch nghĩa:
Qua vũng Hoa Phong
Lá buồm không vội vượt qua vũng Hoa Phong,
Vách đá đứng, sườn núi đỏ, giữa nước chỏi dựng lên.
Thế nước tuỳ chỗ theo mặt núi mà biến chuyển.
Hình núi nghiêng mình, nép tựa cửa lạch để nước thông qua.
Cá rồng(2) lẫn lộn, tăm khuất dưới từng hơi nước mỏng mùa thu.
Âu(3) cò cùng bay trong ánh đỏ mặt trời chiều.
Cõi Tiên có ba trăm sáu động ngọc và phòng mây(4),
Đây không biết chốn nào là cung Thuỷ Tinh(5)
(1) Trong Phượng Sơn từ chí lược cũng như Đại Nam dư địa chí ước biên.
(2) Cá rồng: Trỏ chung các loài sống dưới nước. Riêng đây thì tục truyền xưa có rồng xuống, cho nên được đặt tên Hạ Long.
(3) Âu: là thứ chim nước đầu giống bồ câu, chân giống vịt, sống chung quanh vũng nước lớn, thường nằm im nổi trên mặt nước.
(4) Xưa tin rằng người ta có thể tu luyện trở thành bất tử, gọi là Tiên, ở những nơi hẻo lánh trên núi, bể xa, trong hang động, thường mây phủ.
(5) Thuỷ Tinh cung: trỏ cung điện mà người xưa tưởng là nơi cư trú của Tiên ở ngoài bể.
Dịch thơ:
Qua vũng Hoa Phong
Lá buồm thủng thỉnh vượt Hoa Phong.
Đá dựng bờ son mọc giữa dòng.
Dòng nước lần theo chân núi chuyển,
Mình lèn nghiêng để lối duyềnh thông.
Cá rồng lẩn nấp hơi thu nhạt,
Âu lộ cùng bay bóng xế hồng.
Băm sáu phòng mây cùng động ngọc,
Đâu nào là cái Thuỷ Tinh cung?